Hoàng đế lưu vong Đường_Minh_Hoàng

An Lộc Sơn phát triển thế lực

Chân dung An Lộc Sơn.

Năm 735, Minh Hoàng theo lời đề nghị của Trương Thủ Khuê, phong cho hai nghĩa tử của ông ta là A Lạc SơnSử Tốt Cán làm quan trong triều, đổi tên chúng là An Lộc SơnSử Tư Minh. An Lộc Sơn nắm quân ở phía bắc, thường tỏ ra dũng cảm thiện chiến và giả vờ trung thành, do đó Minh Hoàng rất tín nhiệm. Hắn lại mua chuộc nhiều quan lại được nhà vua cử đến giám sát, nên được bọn này nói giúp. Cuối năm 741, Minh Hoàng phong An Lộc Sơn làm Đô đốc Doanh châu, Sung quân sử ở Bình Lư, Kinh lược sứ của bốn phủ.

Trong triều đình trước đó không có chính sách trọng dụng người ngoại tộc. Đến khi Lý Lâm Phủ làm tể tướng đã ra sức khuyên hoàng đế nên dùng người Hồ, vì lẽ người Hồ thì sẽ trung thành hơn người Hán, mặc dù lý do chủ yếu là từ động cơ cá nhân của ông ta: sợ rằng nếu triều đình dùng quá nhiều người Hán thì sẽ có ngày địa vị của mình lung lay[74]. Do đó, một loạt tướng có gốc là người tộc khác như An Lộc Sơn người Hồ, Cao Tiên Chi người Cao Ly được ông trọng dụng[45][74]. Năm 742, Đường Minh Hoàng cho bố trí quân đội ở các khu vực hiểm yếu, gồm 9 phủ Tiết độ sứ, 1 phủ Đô hộ sứ (Lĩnh Nam) và ba phủ Kinh lược sứ (Trường Lạc, Đông Lai, Đông Mưu)

Tên phủ đô hộ/tiết độ/kinh lượcTrị sởTrách nhiệmQuân lực
An Tây (安西)Quy Tư [Ghi chú 24]Bảo vệ hành lang Hà Tây24,000
Bắc Đình (北庭)Bắc Đình [Ghi chú 25]phòng giữ với Thổ Phiên, Đột Quyết20,000
Hà Tây (河西)Lương Châu [Ghi chú 26]cắt đứt đường qua lại giữa Tây TạngĐông Đột Quyết73,000
Sóc Phương (朔方)Linh Châu [Ghi chú 27]chống giữ với Đông Đột Quyết64,700
Hà Đông (河東)Thái Nguyênchống giữ với Đông Đột Quyết55,000
Phạm Dương (范陽)U Châu [Ghi chú 28]chống giữ với HềKhiết Đan91,400
Bình Lư (平盧)Doanh châu [Ghi chú 29]chống giữ với Thất LyMạt Hạt37,500
Lũng Hữu (隴右)Thiện Châu [Ghi chú 30]chống giữ với Thổ Phiên75,000
Kiếm Nam (劍南)Ích châu [Ghi chú 31]chống giữ với Thổ Phiên và các bộ lạc Nam Man30,900
Lĩnh Nam (嶺南) (5 phủ)Quảng Nam [Ghi chú 32]chống giữ với các bộ tộc địa phương15,400
Trường Lạc (長樂)Phúc Châu [Ghi chú 33]phòng giữ bờ biển1,500
Đông Lai (東萊)Lai Châu (萊州)phòng giữ bờ biển1,000
Đông Mưu (東牟)Đăng Châu [Ghi chú 34]phòng giữ bờ biển1,000

Tổng cộng ở những nơi này có tất cả 490.000 quân và hơn 80.000 ngựa chiến. Từ thời điểm đó, do chính sách bố trí nhiều quân đội như vậy và cũng do các cuộc tấn công liên tiếp của Thổ Phiên, chi phí cho chiến tranh của nhà Đường ngày càng lớn, mọi gánh nặng lại đổ lên vai người dân, do đó tình hình kinh tế đi xuống, dân chúng khổ cực.

Năm 744, Đường Minh Hoàng phong cho An Lộc Sơn làm Tiết độ sứ Phạm Dương. An Lộc Sơn từ đó nắm được hai phiên trấn hiểm yếu, bắt đầu phát triển thế lực lớn mạnh, trở thành mầm họa cho nhà Đường về sau. Nhưng Minh Hoàng không nhận ra việc đó, vẫn một mực tin tưởng An Lộc Sơn. Trong triều, Lý Lâm Phủ cũng có mưu toan riêng, muốn dựa vào thế lực của An Lộc Sơn để làm lợi cho mình, do đó Lộc Sơn nhiều lần làm việc trái phép mà nhà vua không hề hay biết, lại tưởng hắn là người trung thành. Bấy giờ Vương Trung Tự nhìn rõ dã tâm của An Lộc Sơn, bèn tâu lên hoàng đế, nhưng ông không tin. Vốn là người biết nhiều thứ ngôn ngữ, Lộc Sơn dễ dàng thiết lập liên minh với Hề và Khiết Đan, tạo thành thế lực lớn.

Cùng lúc đó ở trong triều, Lý Lâm Phủ e ngại Vương Trung Tự - người Hán - nắm giữ 4 trọng trấn (Hà Tây, Lũng Hữu, Sóc Phương, Hà Đông), sẽ là mối đe dọa với ngôi tể tướng, nên thường nói giúp cho An Lộc Sơn. Năm 747, Lý Lâm Phủ cáo buộc Vương Trung Tự có âm mưu lật đổ nhà vua, đưa thái tử lên thay. Trung Tự bị bắt, và chỉ thoát khỏi án tử hình theo lời khẩn cầu của, Wang bị bắt và hạ cấp, thoát chết nhờ lời cầu xin của phó tướng Kha Thư Hàn. Triều đình sau đó dùng Thư Hàn cai quản Hà Tây, Lũng Hữu; rồi lại giao cho An Lộc Sơn thêm hai trấn Bình Lư, Hà Đông. Lộc Sơn trở thành vị tướng nắm nhiều binh quyền nhất trong khắp đế quốc[74].

Cũng trong năm đó, An Lộc Sơn một lần vào triều, nhà vua mở tiệc thết đãi Trong buổi tiệc, Lộc Sơn tự mình ra múa điệu Hồ Toàn (một điệu múa xoay tròn của người Hồ) để góp vui. Minh Hoàng thấy ông ta bụng béo mà múa như vậy, không nhịn được cười mà nói[86]

Trong bụng có những thứ gì mà to đến vậy?.

An Lộc Sơn trả lời rằng:

Chỉ có tấm lòng chân chính.

Vì thế nhà vua rất vui mừng[86]. Trong buổi hôm đó Lộc Sơn gặp được Dương Quý phi thì sinh ra thèm muốn, bèn giả cách nhận Quý phi là mẫu thân[86][14], nhân đó được tự do ra vào cung cấm, mà thông gian với Quý phi. Minh Hoàng phong phanh nghe được, nhưng cũng bị An Lộc Sơn qua mặt và lừa gạt một cách dễ dàng. Ở phía đông bắc (lãnh địa An Lộc Sơn cai quản), Lộc Sơn cho tuyển chọn ra 8000 quân thiện chiến làm lực lượng nòng cốt, nhiều người bộ tộc Đồng La, Hề, Khiết Đan rất dũng mãnh, thiện chiến mà ông nuôi dưỡng, huấn luyện thành lực lượng riêng gọi là Duệ lạc hà (tiếng bản tộc có nghĩa là tráng sĩ)[77]. Biết thái tử Lý Hanh không ưa mình, An Lộc Sơn càng gấp rút chuẩn bị, phòng ngày sau nhà vua qua đời.[87]

Dương Quốc Trung lên nắm quyền

Lý Lâm Phủ nắm quyền lâu ngày, rất được Minh Hoàng tin tưởng, tướng vị tưởng chừng vững chắc. Tuy nhiên kể từ năm 750, Dương Quốc TrungTrần Tiên Kỳ bắt đầu liên minh với nhau mong lật đổ ông ta[77]. Dương Quốc Trung vì là anh họ của Quý phi, nên nhanh chóng được cất nhắc. Từ năm 746 hắn liên tục thăng tiến, ngoi lên chức Ngự sử trung thừa. Hắn liên kết với một số đại thần, tiêu diệt một số thân tín của Lý Lâm Phủ, hòng lên làm Tể tướng. Sau đó Lý Lâm PhủDương Quốc Trung ra mặt đối địch với nhau.

Cuối năm 752, Lý Lâm Phủ bệnh nặng, tâu xin Minh Hoàng đưa Dương Quốc Trung đến đất Thục chống Nam Chiếu. Quốc Trung biết Lâm Phủ muốn hại mình, bèn xin Quý phi nói giúp. Do đó khi Quốc Trung còn chưa tới đất Thục, Thượng hoàng đã sai sứ triệu về. Khi đó bệnh tình của Lý Lâm Phủ đã rất nguy cấp, nhân Dương Quốc Trung đến bèn xin hắn bao dung cho con cháu của mình, nhưng Quốc Trung không đáp. Cuối năm 752, Lý Lâm Phủ chết. 19 năm tại vị của Lý Lâm Phủ là lâu nhất trong các vị tể tướng dưới thời Minh Hoàng, và trong 19 năm đó, ông ta đã khiến cho quốc lực nhà Đường suy yếu trầm trọng, là mầm mống là họa loạn về sau. Sau khi Lý Lâm Phủ chết, Dương Quốc Trung lập tức tố cáo ông ta là kẻ đồng lõa trong cuộc nổi dậy của tướng Lý Hiến Trung, kết quả Lâm Phủ hặc tội (dù đã chết), gia đình ông ta bị lưu đày[77].

An Lộc Sơn tạo phản

Đầu năm 753, Dương Quốc Trung được phong làm tể tướng. Sau đó, một sự xung đột lại nổ ra giữa Dương Quốc TrungAn Lộc Sơn. Quốc Trung nhiều lần cảnh báo hoàng đế rằng An Lộc Sơn sẽ tạo phản, nhưng Minh Hoàng trước sau không tin. Đến năm 754, Dương Quốc Trung tâu rằng nếu bây giờ mà triệu An Lộc Sơn đến kinh đô, hắn chắc chắn sẽ từ chối, và nhà vua quyết định làm như vậy để thử lòng Lộc Sơn. Lộc Sơn liệu thời cơ chưa chín muồi, nên quyết định vào kinh diện thánh. Sau sự kiện này, Hoàng đế không còn nghi ngờ gì đối với An Lộc Sơn nữa. Tuy nhiên, vì sự phản đối của Dương Quốc Trung, nên Minh Hoàng tạm gác dự định kế hoạch phong An Lộc Sơn làm tể tướng[88].

Cũng năm đó, Dương Quốc Trung tìm cách loại bỏ tể thần khác là Trần Hi Liệt, bèn tố cáo Hi Liệt. Hi Liệt biết mình sẽ bị Quốc Trung hãm hại, nên chủ động xin từ chức để tránh tai họa. Nhà vua lấy Thị lang Võ bộ[Ghi chú 35] Cát Ôn lên thay làm tể tướng thứ hai[88]. Sau đó Dương Quốc Trung còn vu khống và loại bỏ được đại thần Kinh Triệu doãn Lý Hiện[88].

Năm 754, An Lộc Sơn đề bạt 500 người Hề, Khiết Đan, Cửu Tính, Đồng La lên làm tướng quân và 2.000 người thăng chức Trung lang tướng. Sang đầu năm 755, lại dùng 32 tướng người Hồ thay các tướng người Hán, từ đó toàn bộ tướng lãnh dưới quyền An Lộc Sơn đều là người Hồ. Ngoài ra, An Lộc Sơn còn ra sức tích lương thảo, nuôi nhiều chiến mã, làm số quân và thực lực mạnh hơn hẳn lực lượng của triều đình trung ương nhà Đường.

Sai lầm liên tiếp

Cuối năm 755, Dương Quốc Trung tiến hành bao vây phủ đệ của An Lộc Sơn ở Trường An, bắt giữ và hành quyết những người thân của ông ta đang ở đây. Lộc Sơn khi đó đang ở Phạm Dương, hết sức tức giận. Ngày 16 tháng 11 năm 755, An Lộc Sơn nghe theo gợi ý của thuộc hạ, triệu chư tướng lại, giả cách tuyên bố mình nhận mật chiếu của thiên tử, đem quân vào tru diệt Dương Quốc Trung. Sau đó, Lộc Sơn khởi binh từ Phạm Dương, liên kết với Hề, Khiết Đan, Đồng La, chính thức phản Đường[85]. Quân An có 15 vạn, nhưng phao lên là 20 vạn[88]. Loạn An Sử bắt đầu[89].

Các thành phía đông bắc nhanh chóng rơi vào tay An Lộc Sơn. Đến khi thông tin truyền tới Trường An, nhà vua bàng hoàng, còn Dương Quốc Trung dương dương tự đắc vì mình đã đoán đúng, và dự đoán chỉ trong 20 ngày, An Lộc Sơn sẽ bị thuộc hạ giết chết. Tiết độ sứ An Tây Phong Thường Thanh xin mở phủ khố ở Lạc Dương, chiêu mộ sĩ tốt tòng quân, Minh Hoàng nghe theo. Sau đó Thường Thanh mộ 60.000 quân, đóng ở Hà Dương gây thanh thế. Huyền Tông lại phong cho Tiết độ sứ Sóc Phương An Tư Thuận làm Hộ bộ thượng thư, Thái thú Cửu Nguyên Quách Tử Nghi là Tiết độ sứ Sóc Phương, Lý Quang Bật làm Tiết độ sứ Hà Đông phòng thủ các trấn này; Vương Thừa Nghiệp làm Thái Nguyên doãn, Vinh vương Lý Uyển làm Nguyên soái, Cao Tiên Chi làm phó, suất quân đông chinh, đóng ở đất Thiểm[Ghi chú 36].

Nhưng các thành của nhà Đường vẫn lần lượt bị mất: Bác Lăng, Hao Thành rồi Trần Lưu, Bình Nguyên, Huỳnh Dương, Vĩnh Dương, Thường Sơn... sau đó quân Yên kéo đến Lạc Dương. Minh Hoàng bèn cho giết chết con trai An Lộc SơnAn Khánh Tông đang làm con tin ở kinh đô, và bắt vợ Khánh Tông là Vinh Nghĩa quận chúa tự vẫn. Phòng Thường ThanhCao Tiên Chi bị đánh bại ở Võ Lao, phải rút về Lạc Dương. Minh Hoàng cũng muốn thân chinh đánh An Lộc Sơn, để thái tử Lý Hanh giám quốc, nhưng Dương Quốc Trung tâu rằng Lý Hanh có dã tâm lớn, không thể một lúc phó thác hết chính sự cho được. Ông bèn bỏ lệnh thân chinh.

Vua sai hoạn quan Biên Lệnh Thành ra làm Giám quân, giám sát quân Cao Tiên Chi. Biên Lệnh Thành thường hạch sách bắt Cao Tiên Chi thỏa mãn yêu cầu cá nhân, nhưng đều bị Tiên Chi từ chối. Lệnh Thành bèn gièm pha với Minh Hoàng. Cuối cùng nhà vua hạ lệnh giết cả Phong Thường ThanhCao Tiên Chi, cử Ca Thư Hàn (đang dưỡng bệnh ở nhà) dẫn 80.000 quân đến trấn thủ Đồng Quan. Tháng 1 năm 756, An Lộc Sơn tiếm xưng hoàng đế, lấy quốc hiệu là Yên[90]. Cùng lúc đó, nhà vua sai Lý Quang Bật 5000 quân tiến về phía đông, đánh phá Thường Sơn[Ghi chú 37]. Lý Quang Bật đánh tan quân của Sử Tư Minh, thu phục 10 huyện ở Thường Sơn. Kế đó, tháng 5 ÂL, đại tướng Quách Tử Nghi chiếm lại hai quận Vân Trung[Ghi chú 38], Mã Ấp[Ghi chú 39]. An Lộc Sơn phải rút về Lạc Dương củng cố lực lượng, và sai Sử Tư Minh cứu Hà Bắc, lệnh cho con trai An Khánh Tự ở lại Đồng Quan.

Sử Tư Minh tuy bị quân Đường áp đảo ở Hà Bắc nhưng thế lực còn lớn. Quách Tử Nghi dùng kế đánh lâu dài để làm tiêu hao sinh lực địch, tình thế trên chiến trường đã chuyển sang nghiêng về phía quân Đường khi Sử Tư Minh bị đánh phải lui về Bác Lăng[Ghi chú 40].

Ở Đồng Quan, Kha Thư Hàn dùng chiến thuật phòng thủ không ra khiến quân Yên mắc kẹt không tiến lên được[88]. Tuy nhiên ngay lúc này, Đường Minh Hoàng lại mắc sai lầm. Tại Trường An và xung quanh kinh thành nổ ra dư luận trong các tướng lĩnh quy trách nhiệm cho Dương Quốc Trung lộng hành và kích động ra cuộc phản loạn của An Lộc Sơn. Các tướng đang trấn giữ Đồng Quan như Kha Thư Hàn, Vương Tư Lễ khuyên có ý mang quân về kinh thanh trừng Dương Quốc Trung. Dương Quốc Trung sợ, bèn mộ 10.000 quân để tự vệ. Quách Tử Nghi, Lý Quang BậtKha Thư Hàn đều chủ trương đánh lâu dài, chờ An Lộc Sơn mất lòng dân. Nhưng nhà vua nôn nóng thắng trận, nghe lời sàm tấu của Dương Quốc Trung, ép Kha Thư Hàn xuất kích từ Đồng Quan ra đánh quân Yên, nhanh chóng chiếm lại Lạc Dương. Thang 8 năm đó, Kha Thư Hàn đành phải nghe lệnh, kết quả đại quân vừa kéo ra thì rơi vào phục kích, 100.000 quân bị tiêu diệt bởi mai phục của Yến quân, Đồng Quan bị mất, bản thân Kha Thư Hàn bị giết. Bức tường Đồng Quan chắn ngay trước thành Trường An đã rơi vào tay kẻ địch[91].

Bỏ khỏi kinh đô

Đường Minh Hoàng chạy đến Tứ Xuyên, tranh vẽ của họa sĩ Cừu Anh đời Minh mạt

Chiếm được Đồng Quan, An Lộc Sơn kéo về Trường An. Cả triều đình nhà Đường nhốn nháo, người dân cuống cuồng thu dọn đồ đạc, chuẩn bị rút khỏi kinh đô.

Ngày 14 tháng 7 năm 756[92], trước tình thế quân Yên đã sắp đánh tới Trường An; Đường Minh Hoàng vội vã thu dọn hành lý, bỏ khỏi kinh đô, cùng Dương Quý phi, Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ... chuẩn bị chạy sang đất Thục, nhưng bề ngoài tuyên bố là hoàng thượng thân chinh. Khi ông ra khỏi kinh đô, Dương Quốc Trung sai đốt cầu bắc ngang sông để ngăn chặn quân Yên. Ông nói

Dân chúng cũng muốn trốn nạn tìm đường sống, sao lại cắt sinh lộ của dân như vậy.

Rồi sai dập lửa[93][94]. Sau đó Minh Hoàng tới Hàm Dương. Lúc đó, tình cảnh triều đình lưu vong hết sức kham khổ, đến cả Đường Minh Hoàng cũng bị thiếu thức ăn, còn các hoàng tử và tùy tùng vì đói cũng đành tìm vào những thôn xóm để xin ăn.

Lúc đó, một bô lão đến nói với nhà vua

Lộc Sơn nuôi tâm phản loạn đã lâu, không phải chỉ một ngày. Trong dân cũng có người đến cửa khuyết tâu trình âm mưu phản loạn của hắn, nhưng thấy bệ hạ thường kết tội những người can gián, khiến cho âm mưu của An Lộc Sơn có cơ hội thực hiện. Trước kia thần thấy Tống Cảnh làm tướng, thiên hạ được thái bình. Từ cuối đời Khai Nguyên đến nay, đình thần a du xu nịnh, chinh sự suy đồi nhưng chí tôn không biết được. Sự việc nay đến nỗi này, thần đến để cảnh báo với Bệ hạ

Nhà vua đáp rằng

Đó là do trẫm bất minh, có hối cũng chẳng kịp.

Sau đó đoàn tùy tùng tiếp tục lên đường, đến Kim Thành. Khi đó viên lệnh đã trốn mất, lại nghe tin Kha Thư Hàn bại trận; nhiều người bỏ trốn không theo nhà Đường nữa.

Ban chết Dương quý phi

Ngày 15 tháng 7, đoàn tùy tùng của Đường Minh Hoàng đến trạm dịch Mã Ngôi[Ghi chú 41]. Lúc đó binh sĩ tùy hành đói khát mệt mỏi, tình cảnh nguy cấp. Đại tướng Trần Huyền Lễ thấy rằng cảnh loạn lạc là bởi Dương Quốc Trung mà ra, nên muốn diệt trừ. Thái tử Lý Hanh biết việc nhưng không dám hợp tác với Huyền Lễ. Không lâu sau, có tiếng hô hoán ngoài trạm dịch:

Dương Quốc Trung âm mưu phản loạn

Rồi xông vào giết Dương Quốc Trung. Sau đó lại giết luôn người con của Trung là Dương Huyên cùng Hàn quốc, và Tần quốc phu nhân. Ngự Sử Đại Phu là Ngụy Phương Tiến lên tiếng mắng lại, cũng bị giết nốt. Minh Hoàng nghe có biến động, bèn hỏi nguyên do, mới biết quân sĩ làm phản. Ông bèn chống gậy ra ngoài xem, ra lệnh cho binh sĩ phải trở về đội ngũ, hứa sẽ không hỏi tội. Nhưng binh sĩ không chịu. Trần Huyền Lễ thưa:

Quốc Trung mưu phản, không nên để quý phi hầu hạ ở bên bệ hạ nữa, xin bệ hạ vì quốc pháp mà cắt bỏ tình riêng.

Minh Hoàng do dự, vào bên trong. Lát sau, cúi đầu đi ra. Kinh Triệu doãn Triệu Tư Lục cùng Vi Ngạc đều khuyên ông phải thuận theo tình thế. Ông nói với Cao Lực Sĩ:

Quý phi ở trong thâm cung, sao biết được Quốc Trung mưu phản?.

Lực Sĩ nói

Quý phi quả thật vô tội, nhưng nay tướng sĩ đã giết Quốc Trung rồi, mà quý phi còn sống bên cạnh bệ hạ, tướng sĩ đâu có yên lòng? Xin bệ hạ suy xét kỹ lại. Tướng sĩ được yên lòng, tức bệ hạ được bình an.

Đường Minh Hoàng không còn cách nào để đối phó, đành phải nghe theo ý của Cao Lực Sĩ, ban chết cho Quý phi[85]. Theo các sử sách cổ như Tư trị thông giám, Cựu Đường thư, Đường quốc sử bổ... thì Quý phi bị tử hình bằng cách treo cổ dưới gốc cây lê[95]. Tuy nhiên các thi nhân đương thời trong những tác phẩm của mình mô tả quý phi bị tử hình bằng hình thức khác: Đỗ PhủĐỗ Mục cho rằng bà bị loạn quân giết chết, Lý Ích nói bà bị dìm chết dưới vũng bùn, lại có ý kiến nói bà bị ngựa giẫm nát thây, hay đổ bột vàng đã nấu sôi vào họng cho đến chết[96]. Lúc Quý phi qua đời, nhà vua cực kì đau xót, cũng không dám chứng kiến cảnh ấy. Sau khi Dương quý phi mất, đoàn tùy tùng lại rời khỏi Mã Ngôi. Các tướng sĩ muốn đến Linh Võ, Thái Nguyên hoặc về Trường An. Minh Hoàng lại muốn chạy tiếp vào Tứ Xuyên, nhưng bị phụ lão giữ lại. Ông bèn để thái tử ở lại trấn an phụ lão ở xung quanh kinh đô còn mình tiếp tục chạy về phía tây[97][98]. Phụ lão trong thành thất vọng về ông, bèn nảy ý tôn phò thái tử. Sau đó ngày 12 tháng 8, được sự ủng hộ của các đại thần, Lý Hanh lên ngôi hoàng đế tại Linh Vũ[Ghi chú 42], tự xưng là Đường Túc Tông[85]. Túc Tông vọng tôn vua cha làm Thái thượng hoàng.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đường_Minh_Hoàng http://blog.sina.com.cn/s/blog_471fa0c7010090rm.ht... http://english.cri.cn/12394/2016/12/31/2743s948606... http://guoxue.baidu.com/page/d0c2ccc6cae9/95.html http://www.britannica.com/EBchecked/topic/274034 http://discovery.cctv.com/20080214/102466.shtml http://www.doisongphapluat.com/doi-song/an-choi/te... http://www.erct.com/2-ThoVan/PXuanHy/DuongQuyPhi.h... http://kilopad.com/Tieu-su-Hoi-ky-c12/doc-sach-tru... http://onggiaolang.com/38-khai-thien-thinh-the/ http://phimhd7.com/thien-tu-tam-long-12271/